Tóm tắt bài báo 14: Nghiên cứu thể nghiệm ứng dụng bộ mô hình MIKE đánh giá tài nguyên nước mặt lưu vực sông Lá Buông
Đỗ Đức Dũng
9/13/20253 min read


Tiêu đề
Nghiên cứu thể nghiệm ứng dụng bộ mô hình MIKE đánh giá tài nguyên nước mặt lưu vực sông Lá Buông
Tác giả
ThS. NCS. Đỗ Đức Dũng – Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam
Tóm tắt
Mục tiêu: Thể nghiệm ứng dụng các mô hình toán của DHI (Đan Mạch) để đánh giá tài nguyên nước mặt trên lưu vực sông Lá Buông – một lưu vực nhỏ thuộc hệ thống sông Đồng Nai.
Phương pháp: Kết hợp nhiều mô hình:
NAM (mưa – dòng chảy) để kéo dài chuỗi dòng chảy.
MIKE BASIN WB/WQ (cân bằng nước & chất lượng nước).
MIKE 11 HD/AD/WQ (thủy lực 1D + tải khuyếch tán + chất lượng nước).
MIKE 21 (mô phỏng lũ 2D).
Phạm vi: Nghiên cứu 9 tháng (7/2005 – 3/2006), trong khuôn khổ dự án DANIDA.
Nội dung và kết quả chính
Mô hình NAM
Do số liệu dòng chảy ít và gián đoạn, mô hình được dùng để mô phỏng và kéo dài chuỗi.
Hiệu chỉnh tại trạm Lá Buông: R² = 0,79, sai số tổng lượng = 0% → mô hình phù hợp để tính toán dòng chảy cho các tiểu lưu vực khác.
Mô hình cân bằng nước (MIKE BASIN WB/WQ)
Xem xét 3 phương án: hiện trạng (2005), phát triển 2010, phát triển 2020.
Nhu cầu nước: 136 triệu m³ (2005), 205 triệu (2010), 216 triệu (2020).
Kết quả:
Hiện trạng: thiếu nước tháng 3–4 do không có công trình điều tiết.
2010: có hồ chứa → cải thiện rõ rệt mùa khô, đảm bảo dòng chảy môi trường.
2020: thêm công trình nhưng dòng chảy mùa khô chỉ nhỉnh hơn 2010 chút ít → đạt ngưỡng khai thác tối đa.
Chất lượng nước (MIKE BASIN – WQ)
Dự báo ô nhiễm BOD, NO₃, P tổng gia tăng do nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh.
2010: BOD vượt chuẩn nước loại B.
2020: nhờ có hồ Lá Buông 2, chất lượng cải thiện nhưng vẫn có nguy cơ ô nhiễm NO₃ và P.
Mô hình thủy lực MIKE 11 HD/AD/WQ
Mô phỏng mực nước và chất lượng nước vùng hạ lưu.
Kết quả: mực nước và DO, BOD, COD… mô phỏng gần với thực đo, nhưng còn hạn chế do dữ liệu đầu vào ít.
Nước vùng hạ lưu nhờ ảnh hưởng triều trên sông Đồng Nai nên chất lượng tốt hơn.
Mô hình lũ MIKE 21
Ứng dụng cho vùng hạ lưu để đánh giá ngập lụt.
Trường hợp không có hồ Lá Buông 1: diện tích ngập ~580 ha.
Có hồ Lá Buông 1: diện tích ngập giảm còn ~391 ha.
Tuy nhiên, ngập ở hạ lưu chủ yếu do ảnh hưởng mực nước sông Đồng Nai.
Kết luận
Bộ mô hình MIKE có thể ứng dụng hiệu quả để đánh giá tài nguyên nước mặt, cân bằng nước, chất lượng nước và ngập lụt.
Lưu vực Lá Buông có nguy cơ thiếu nước mùa khô và ô nhiễm gia tăng khi phát triển công nghiệp – nông nghiệp.
Hồ chứa đóng vai trò quan trọng trong điều tiết dòng chảy và cải thiện chất lượng nước, nhưng khả năng khai thác lưu vực đã gần đạt ngưỡng (2020).
Cần quản lý, cập nhật số liệu liên tục và đưa ứng dụng mô hình thành công cụ thường xuyên trong quy hoạch tài nguyên nước.